Vài nét về cụ bà Nguyễn Đình Chiểu tục danh Lê Thị Điền

 

Tiếng súng đầu tiên của quân viễn chinh Pháp bắn thị oai Cửa Hàn (Đà Nẵng, 1843) đến nay đã 139 năm. Từ đó, dân tộc ta đã liên tục chiến đấu giành độc lập. Biết bao nhiêu anh hùng cứu nước xuất hiện, cũng biết bao nhiêu cây bút chiến sĩ ra đời góp phần không nhỏ vào cộng cuộc kháng chiến cứu nước Vĩ đại của dân tộc. Nguyễn Đình Chiểu là một người tiên phong và dũng mãnh nhất trong những năm đầu của Nam Bộ kháng Pháp này. Lịch sử văn học đã nhắc nhiều đến công đức của cụ, tấm lòng yêu nước tuyệt vời và cây bút lông đánh giặc kiên quyết bền bỉ. không bao giờ mệt mỏi của cụ. Tuy vậy sẽ rất thiếu sót, nếu lịch sử vô tình bỏ quên một người cộng tác rất đắc lực với Nguyễn Đình Chiểu trong cuộc kháng chiến cứu nước và lao động nghệ thuật — bà Lê Thị Điền, người vợ, cũng là người đồng chí của Nguyễn Đình Chiểu.


Bà Lê Thị Điền sanh năm 1835, chiếu âm lịch là năm Ất mùi. Tên song thân của bà đến nay chưa có tài liệu nào ghi rõ, chỉ biết bà có người anh là ông Lê Tăng Quýnh, nhà khá giả, làm Cai tổng ở xã Thanh Ba, huyện Phước Lộc, tỉnh Gia Định (nay là ấp Thanh Ba, xã Mỹ Lộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An).

Ông Lê Tăng Quýnh là người nho học, có mở lớp tại nhà để dạy em cháu và trẻ con trong làng. Bà Lê Thị Điền lớn lên trong hoàn cảnh đó, đã thụ hưởng một nền giáo dục đầy đủ mà người xưa thường dành cho con gái nhà khuê các:cầm, kỳ. thi, họa. Đến năm 15—17 tuổi bà nổi tiếng tài sắc một vùng, biết bao thanh niên nhà quyền quý đến dạm hỏi, nhưng bà đều từ chối khéo.

Ông Lê Tăng Quýnh đã nhiều lần nhắc nhở việc xây dựng gia đình, nhưng bà thung dung đáp: "Việc gì mà vội. Nếu sau này dù gặp người đui mù mà xứng đáng cho em tôn sùng, em cũng cứ vui lòng".

Trước thái độ cứng rắn của em gái, ông Lê Tăng Quýnh đành bỏ qua không bàn đến việc hôn nhân nữa. Rồi nhiều năm trôi qua, bỗng có một người mang đến cho ông Lê Tăng Quýnh bân chép tay tác phẩm Dương Từ — Hà Mậu mà tác giả là một ông Tú mù lòa đang mở lớp dạy học lại làng Tân Thuận (Gia Định). Ông Lê Tăng Quýnh khâm phục văn tài của tác giả bèn đánh đường đến Tân Thuận xem xét. Sau mấy lần tiếp xúc, ông hết sức kính trọng đức độ và tài y thuật của thầy Đồ, nên xin được làm môn sinh của thầy.

Sau đó, cám cảnh thầy đơn chiếc, mù lòa, tuổi đã quá 30 mà chưa có con trai nối dối, lại nhớ đến lời em gái nói hôm nào, ông quyết định bắc cầu cho trai tài gái sắc gần nhau. Thế rồi, một mặt ông cố thuyết phục cho thầy chịu lấy vợ, một mặt ông đặt thẳng vấn đề với cô em. Ông nói trước rằng: bên trai quả thật đui mù nhưng tài cao đức trọng, ông tôn sùng rồi, còn em có tôn sùng chăng, phải tự xét lẫy, bằng cách theo anh cải dạng nam trang đến Tân Thuận xin làm học trò để có dịp quan sát tận mắt.

Bà Lê Thị Điền chấp nhận đề nghị của anh, đóng bộ giả trai, cắp sách theo anh đi học. Rồi sau một thời gian ngắn dò xét, nhận thấy thấy đồ quả đúng như lời người anh nói, bà mới thuận lòng xây dựng hôn nhân.

Trong gia phả của họ Nguyễn Đình không ghi thầy đồ cưới vợ năm nào, song kết quả cuộc hôn nhân này, năm 1855 người con gái đầu lòng Nguyền Thị Hương ra đời, kế đó, năm 1858 bà sinh người con trai lớn là Nguyễn Đình Chúc.
 
Trong khoảng thời gian này, thầy đồ Nguyễn Đình Chiểu và bà Lê Thị Điền còn cư ngụ quanh vùng Sài Gòn — Gia Định.

Đầu năm 1859 xảy ra quốc biến, quân Pháp chiếm được thành Gia Định châm lửa đốt cả vùng:

                  ... Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
                  Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây,


Trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng này, bà Lê Thị Điền lại bế con thơ, dìu chồng lánh nạn về quê lại Thanh Ba (Cần Giuộc), sống nương náu với anh là ông Lê Tăng Quýnh, nhà ở cách chùa Ông Ngộ (tức chùa Tôn Thạnh, một địa điểm trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc) khoảng một cây số.

Về sau gia đình Nguyễn Đình Chiểu dời về sát gần chùa để động hữu hiệu cho công cuộc kháng Pháp và sáng tác thơ văn. Bề ngoài thầy đồ mở lớp dạy học trò và làm thuốc bên trong dưa mưu bày kế cho nghĩa binh kháng chiến, thầy làm cố vấn trong Bộ tham mưu chống Pháp của Trương Công Định. Nhận thấy thầy đồ được nhiều người mến mộ, nên các vị lãnh đạo chống Pháp mong muốn thầy Đồ cho ra đời một tác phẩm có thể phổ biến để dành ngay trong vùng địch chiếm đóng và nghĩ binh trong công tác tuyên truyền sẽ mượn tấm bình phong đó để gây lại niềm tin trong dân chúng. Thế là tác phẩm Lục Vân Tiên được hoàn tất. Chính thầy đồ đã đọc cho bà Lê Thị Điền chép tay áng văn bất hủ này.

Bà Lê Thị Điền lúc bấy giờ không những là "thơ ký văn chương" cho chồng mà còn góp phần vào cuộc kháng chiến cứu nước. Năm 1861 bà sinh người con gái thứ tư là Nguyễn Thị Kim Xuyến. Đến năm 1862, Pháp chiếm xong ba tỉnh miền Đông, một lần nữa thầy Đồ Nguyễn Đình Chiểu lại lánh nạn đến Ba Tri, một nơi còn ở ngoài  vòng chiếm đóng của Pháp.

Tại Ba Tri, năm 1864 người con gái thứ năm là Nguyễn Thị Ngọc Khuê ra đời. Năm 1869 sanh người con thứ bảy là Nguyễn Đình Chiêm, và sau đó người trai út là Nguyễn Đình Ngưỡng (người con thứ sáu chết lúc còn nhỏ).

Nhìn lại cuộc đời cụ bà Lê Thị Điền, chúng ta thấy rằng: Thời con gái. Tuổi thanh xuân đã mở lối cho bà bước đến một Cuộc sống vàng son, nhưng bà đã ngang nhiên khước từ. Phải chăng ngay bấy giờ bà đã nhận thức được rằng: giàu sang không phải là chân giá trị của hạnh phúc. Những chàng công tử còn nhà quyền quý kia chì có thể đem lại cho bà cuộc đời nhung lụa nhưng ích kỷ, không có ý nghĩa gì đói với đất nước, xã hội. Gặp Nguyễn Đình Chiều, bà đã tim được người cùng chung lý tưởng thanh cao, một người đồng chí. Dù mù lòa nhưng chính ông mới là người đem lại cho bà hạnh phúc chân chính.

Thời kỳ làm vợ, vì lấy chồng mù, bà phải săn sóc chu đáo từ thức ăn giấc ngủ, manh quần tấm áo cho chồng. Thầy đồ có mở lớp dạy học và làm thuốc, song không vì kế sinh nhai mà vì lý tưởng cứu dân tá quốc. Phần lớn, sự sống trong gia đình đều do tài đảm đang của bà. Ngoài ra, bà đã góp công rất nhiều trong việc ghi chép và phổ biến thơ văn của thầy đồ đến nhân dân, như Lục Vân Tiên, Tứ thư (diễn nôm), Gia huấn ca Tam thập lục nạn, Ngũ kinh v.v...

Với nhiệm vụ làm mẹ. Cụ bà Lê Thị Điền đã sanh được bảy người con: 4 trai, 3 gái. Trong số các người con thành danh, thì bà Nguyễn Thị Kim Xuyến nổi danh về âm nhạc ở đất Ba Tri. Bà Nguyễn Thị Ngọc Khuê mà lịch sử văn chương biết qua tên Sương Nguyệt Ánh, là người đàn bà Việt Nam đầu tiên ra làm báo, chủ bút tờ Nữ giới chung năm 1918. Ông Nguyễn Đình Chiêm bút hiệu Trọng Vĩnh, tác giả tuồng truyện Phấn Trang lần, Sam Tống trinh trung v.v...

Bà Lê Thị Điền là tấm gương sáng cho các thế hệ phụ nữ Việt Nam vẽ tinh thần yêu nước dũng cảm, về tinh thần tận tụy hy sinh cho chồng con. Trong giai đoạn mà đầu cuộc kháng Pháp ở Nam Bộ, từ năm 1861 bà xứng đáng là người phụ nữ tiên phong của đất Đồng Nai nói riêng và của cả nước Việt Nam nói chung.