Bí ẩn về những bức họa “Lục Vân Tiên”?


Tròn đúng 125 năm ngày mất nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu (3/7/1888 – 3/7/2013), đến nay, nhiều tác phẩm của ông vẫn không ngừng thu hút sự quan tâm của những người yêu văn học dân gian Việt Nam.


Trong số những tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu, Lục Vân Tiên có thể được xem là tác phẩm tiêu biểu hơn cả, bởi nội dung tác phẩm gần gũi, bình dị, với nhiều tâm trạng mang tính chất tự truyện. Lục Vân Tiên là một tác phẩm truyện thơ nôm dài 2.083 câu thơ được sáng tác theo thể lục bát vào đầu những năm 50 của thế kỷ 19, trước khi Pháp xâm lược Nam Kỳ.

 

Gia đình nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, tranh lụa của họa sĩ Trương Văn Ý


Tác phẩm Lục Vân Tiên đã lên án bọn người độc ác, xấu xa, tráo trở, gian manh, bất nhân, bất nghĩa, đồng thời ngợi ca những tấm lòng nhân hậu, thủy chung. Và với ngôn ngữ bình dân gần gũi, truyện thơ đã nhanh chóng được phổ biến rộng rãi trong mọi tầng lớp trong xã hội, nhất là ở Nam Kỳ trong suốt hơn một thế kỷ qua, thậm chí nhiều người đã nhớ, thuộc lòng cả bài thơ. Ảnh hưởng của nó còn lan rộng trên toàn quốc, được lưu truyền dưới hình thức sinh hoạt văn hóa như "kể thơ", "nói thơ Vân Tiên", "hát Vân Tiên" ở Nam Kỳ và Nam Trung Kỳ.


Ngay khi tác phẩm Lục Vân Tiên vừa mới ra đời đã được Abel Des Michels phiên dịch sang  tiếng Pháp (Lục Vân Tiên ca diễn, Paris – 1883). Bên cạnh đó, là các ấn phẩm: Lục Vân Tiên truyện do Trương Vĩnh Ký  dịch năm 1889; Vân Tiên cổ tích tân truyện bản nôm do Tụ Văn Đường in năm 1897 và Liễu Văn đường in năm 1921; Lục Vân Tiên truyện do Trần Nghĩa – Vũ Thanh Hằng dịch theo bản Duy Minh Thị đính chính (Kim Ngọc lâu tàng bản, in năm 1874); Lục Vân Tiên truyện do Nguyễn Quảng Tuân dịch và chú thích theo bản Duy Minh Thị đính chính (Bảo Hoa các tàng bản, Quảng Thạnh Nam phát thụ, không ghi năm in)…


Đặc biệt, năm 2006, chuẩn bị đón chào Festival Huế, vợ chồng nghệ nhân Nguyễn Phúc Vĩnh Thọ (TP. Huế) đã tập trung công sức thể hiện tác phẩm Lục Vân Tiên viết  bằng cả chữ quốc ngữ và chữ nôm trên nền vải lụa dài 120m, xếp thành 260 trang (khổ 0,85m x 0,45m), với phần chữ quốc ngữ thể hiện theo lối thư pháp và chữ nôm viết theo lối chân phương. Bên cạnh nét chữ tài hoa, khoáng đạt, mặt vải còn được điểm xuyết bằng hình ảnh của tứ bình càng tăng thêm sự trang trọng, mềm mại, thanh thoát của tác phẩm.


Thú vị hơn, đầu năm 2013, tại triển lãm Tranh dân gian Việt Nam - Tranh bộ ba (tại IDECAF, TP. Hồ Chí Minh), công chúng lần đầu tiên đã được thưởng ngoạn những bản thảo tranh màu Lục Vân Tiên (bản chụp lại), vốn là những họa phẩm quý giá lần đầu tiên được nhìn thấy sau 120 năm bị lãng quên trong một thư viện ở Paris.


Theo nhà nghiên cứu Pascal Bourdeaux (Viện Viễn Đông bác cổ tại TP. Hồ Chí Minh), người đang giám sát việc nghiên cứu và phổ biến bản thảo này: “Vào khoảng năm 2011, trong dịp GS. Phan Huy Lê đến giao lưu với Viện Hàn lâm tại Paris và được dẫn đi tham quan khu lưu trữ, ông  và chúng tôi đã tình cờ phát hiện vài tư liệu quý, đặc biệt nhất là bản thảo số hiệu MS3816 về truyện Lục Vân Tiên mà lâu nay chẳng ai đề cập đến. Bản thảo được tác giả tặng cho Viện lưu trữ  ngày 26/5/1899. Khoảng 120 năm qua, gần như chưa có ai đọc hay nghiên cứu nó. GS. Phan Huy Lê và chúng tôi rất ngạc nhiên về vẻ đẹp hội họa, tính độc đáo và mức độ bảo quản hoàn hảo”.


Nhà nghiên cứu Pascal Bourdeaux diễn giải: “Trang bên trái của bản thảo là những câu thơ của truyện Lục Vân Tiên, được viết bằng tay khá quy chuẩn và đẹp. Đây là cơ sở để các hình vẽ có tính minh họa dựa vào, đồng thời thể hiện thêm sự sáng tạo của người họa sĩ. Trang bên phải là các hình vẽ (từ 4 đến 6 hình) bao bọc khổ thơ chữ nôm, với cách vẽ mang đậm phong cách tranh dân gian Việt Nam. Cũng có những ý kiến cho rằng, nó mang phong cách của tranh vẽ triều Nguyễn. Tôi chưa biết chắc về số tranh vẽ, nhưng có lẽ nhiều hơn 1.200 hình minh họa màu. Đáng chú ý nhất, đây là bản thảo viết và vẽ tay độc bản”. Chủ nhân của các bức minh họa được cho là một người Pháp, có tên là Eugene Gibert, đến Việt Nam thời tuổi trẻ, trong giai đoạn khoảng 1895 và 1897. Ông này biết đến Lục Vân Tiên qua một bản dịch ra tiếng Pháp năm 1883 của Abel des Michels. Eugene Gibert đến Huế để nhờ một họa sĩ tên là “Le dui trach” (có lẽ là Lê Duy Trạch hoặc Lê Đức Trạch) vẽ minh họa áng thơ này. Sau 2 năm, Eugene Gibert  trở về Pháp và quyết định tặng bản thảo này cho Viện Hàn lâm Pháp (1899).


Vẫn còn nhiều câu hỏi chưa thể trả lời, ví dụ: Eugene Gibert và “Le dui trach” là ai? Tại sao Eugene Gibert muốn vẽ minh họa tác phẩm Lục Vân Tiên mà không phải tác phẩm nào khác? Tại sao ông lại thuê một họa sĩ ở Huế mà không phải Hà Nội hay Sài Gòn?


Tuy nhiên, tại cuộc triển lãm vừa qua tại TP. Hồ Chí Minh, công chúng Việt Nam mới chỉ được thấy bản chụp một số trang của bản thảo minh họa Lục Vân Tiên. Bởi hiện nay, bản thảo này vẫn còn nằm trong kho lưu trữ ở Paris.